Các chuyên gia nhận định thành công kinh tế số ASEAN sẽ phụ thuộc vào AI, tài chính, chính sách và hạ tầng khi Hiệp định DEFA hình thành.
Tại Diễn đàn Kinh doanh và Công nghệ ASEAN 2025 do RMIT Việt Nam tổ chức, các chuyên gia thảo luận về việc ASEAN đang đặt cược vào tương lai kinh tế số trị giá hàng nghìn tỷ USD với Hiệp định khung ASEAN về kinh tế số (DEFA).
ASEAN đang đàm phán Hiệp định DEFA – kế hoạch cấp khu vực đầu tiên thiết lập các quy tắc chung cho thương mại số, thanh toán, dữ liệu và công nghệ mới. Quá trình đàm phán bắt đầu từ năm 2023, dự kiến hoàn tất vào 2025 và có thể được ký kết vào 2026.
Tuy nhiên, tương lai kinh tế số của ASEAN không thể chỉ dựa trên một khuôn khổ chính sách. Các chuyên gia từ Đại học RMIT và đối tác trong khu vực Đông Nam Á nhận định rằng hai trụ cột then chốt quyết định tiến bộ gồm: động lực tăng trưởng từ AI và tài chính, cùng nền tảng từ chính sách, hạ tầng.
AI và tài chính số – chất xúc tác thúc đẩy tăng trưởng
Theo các chuyên gia, trí tuệ nhân tạo đang định hình lại năng suất và thương mại toàn cầu. AI sẽ là động lực thay đổi và đóng vai trò quan trọng trong chiến lược kinh tế số của ASEAN, theo Giáo sư Kok-Leong Ong – Giám đốc phụ trách sáng kiến công nghệ của Phân viện Kinh doanh và Luật, Đại học RMIT. “Con đường phía trước sẽ không bằng phẳng, nhưng cơ hội là vô cùng lớn”.
Ông Ong nhận định, thế hệ trẻ am hiểu kỹ thuật số là lợi thế cạnh tranh của ASEAN, song khu vực vẫn đối mặt với lỗ hổng trong quy định và hạ tầng. “Nếu muốn tận dụng cơ hội từ quá trình chuyển đổi này, ASEAN cần phát triển kỹ năng đúng hướng, xây dựng ‘DNA công nghệ’ vững vàng và đào tạo thế hệ sinh viên có khả năng thích ứng trong các ngành nghề ứng dụng AI tương lai” ông nói.

Các đại biểu và chuyên gia tham gia một phiên thảo luận song song tại Diễn đàn Kinh doanh và Công nghệ ASEAN 2025 do RMIT Việt Nam tổ chức. Ảnh: RMIT
Việt Nam được xem là ví dụ tiên phong. Tiến sĩ Đoàn Bảo Huy, giảng viên cấp cao ngành Tài chính tại RMIT Việt Nam cho biết, năm nay, Việt Nam đã ban hành Luật Công nghiệp công nghệ số và Nghị quyết 05 về thí điểm thị trường tài sản mã hóa, khung chính sách toàn diện quy định rõ quyền sở hữu, cách thức sử dụng an toàn.
Ông Huy đánh giá nghị quyết này không chỉ xác định rõ quyền sở hữu và giao dịch, mà còn yêu cầu mọi hoạt động mua bán phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam, nhằm bảo vệ chủ quyền tiền tệ và giúp triển khai thuận lợi hơn. Các công ty giao dịch cũng phải duy trì mức vốn tối thiểu cao hơn ngân hàng thương mại, giúp giảm rủi ro lừa đảo và tăng niềm tin của nhà đầu tư.
“Trước đây, các giao dịch tài sản số chủ yếu diễn ra trên sàn phi chính thức, gần như không có sự bảo vệ pháp lý”, ông nói. Nghị quyết mới đã đưa hoạt động này ra ánh sáng, với quy định rõ ràng để người dân có thể đầu tư an toàn hơn. Cùng với đó, Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ thông qua ưu đãi thuế, trợ cấp và chính sách khuyến khích cho doanh nghiệp khởi nghiệp, nhà đầu tư quốc tế.
Theo ông Huy, Việt Nam thể hiện tư duy táo bạo và hướng tới tương lai, tạo lợi thế vượt trội so với khu vực với 21% người trưởng thành đang sử dụng hoặc sở hữu tài sản số, tỷ lệ cao nhất ASEAN, cùng mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp công nghệ số vào năm 2035.
Trong khuôn khổ diễn đàn, Tiến sĩ Kevin Nguyễn – Chủ nhiệm các chương trình và môn học trực tuyến tại khoa Kinh doanh, RMIT Việt Nam, cũng đồng tình với quan điểm trên và chia sẻ kinh nghiệm của trường trong việc tích hợp AI vào giảng dạy và vận hành, dựa trên năm trụ cột: tầm nhìn thống nhất, chuẩn mực đạo đức, hợp tác doanh nghiệp, năng lực số và triển khai thử nghiệm.
“Chúng tôi không hướng tới những giải pháp ngắn hạn. Ứng dụng AI là khoản đầu tư dài hạn vào con người và hệ thống. Nếu đi theo hướng này, ASEAN có thể biến lợi thế dân số trẻ thành năng lực cạnh tranh số thực sự”, ông nói.
Tiến sĩ Kevin Nguyễn, Chủ nhiệm các chương trình và môn học trực tuyến tại khoa Kinh doanh, RMIT Việt Nam, trình bày chiến lược năm trụ cột và lộ trình tích hợp AI của nhà trường. Ảnh: RMIT
Chính sách và hạ tầng – nền móng cho hội nhập bền vững
Phó giáo sư Zhou Yimin từ Đại học Quốc gia Singapore nhắc đến Khung Thành phố thông minh ASEAN (ASEAN Smart Cities Framework) cho rằng, với tầm nhìn về các đô thị cạnh tranh, bền vững và đáng sống. Tuy nhiên, ông cảnh báo, câu hỏi quan trọng là liệu các thành phố ASEAN đã sẵn sàng biến tầm nhìn đó thành hiện thực hay chưa.
Theo Phó giáo sư Zhou, AI đang cải thiện nhiều dịch vụ, từ chatbot đến ứng dụng y tế, nhưng nhiều cơ quan vẫn hoạt động rời rạc, dữ liệu phân tán và thiếu động lực tích hợp. Từ việc lập kế hoạch thông minh và tối ưu hóa nguồn lực đến rủi ro loại trừ hoặc lạm dụng dữ liệu, quản trị sẽ mang tính quyết định.
“Thước đo thành công thực sự là liệu AI có mang lại lợi ích cho toàn bộ cộng đồng đô thị hay chỉ cho một nhóm đặc quyền”, ông nhấn mạnh.
Phó giáo sư Zhou Yimin, Đại học Quốc gia Singapore, phân tích Khung Thành phố thông minh ASEAN và những thách thức về quản trị. Ảnh: RMIT
Ông Trần Anh Tuấn – Giám đốc Khối khu vực công của Amazon Web Services Việt Nam cho biết, kinh tế số ASEAN được dự báo đạt khoảng 263 tỷ USD vào năm 2024, tăng 15% so với năm trước, nhưng vẫn nhỏ so với quy mô toàn cầu 16 nghìn tỷ USD.
“Nền tảng điện toán đám mây, hệ thống bảo mật và khả năng kết nối ổn định là yếu tố thiết yếu”, ông nhấn mạnh.
Trong khi Singapore dẫn đầu về trung tâm dữ liệu, khoảng cách với các quốc gia như Myanmar, Campuchia và Lào vẫn còn lớn. Hàng triệu người dân trong khu vực vẫn thiếu kết nối Internet hoặc chênh lệch trong khả năng tiếp cận công nghệ. Chính phủ các nước đang triển khai chính sách hỗ trợ, từ trợ cấp 5G đến ưu đãi thuế cho trung tâm dữ liệu. Hợp tác khu vực, đồng bộ chính sách và phát triển năng lực số sẽ là yếu tố quyết định để ASEAN trở thành nền kinh tế số hàng đầu.
Đồng tình với nhận định này, Phó giáo sư Nguyễn Thanh Bình – Phó chủ nhiệm nhóm bộ môn Kinh tế – Tài chính và đồng chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ mới trong Kinh doanh (CBET) tại RMIT Việt Nam cho rằng, để đạt được tham vọng số, khu vực không chỉ cần đổi mới mà còn phải phối hợp.
Hạ tầng số của các nước ASEAN vẫn phát triển không đồng đều. Do đó, để nâng quy mô kinh tế số khu vực lên 1.000 – 2.000 tỷ USD vào năm 2030, các quốc gia phải vừa mở rộng vừa khai thác hiệu quả hạ tầng hiện có.
“Điều này chỉ có thể đạt được thông qua hợp tác sâu rộng hơn, và DEFA có thể trở thành động lực thúc đẩy hành trình đó”, ông nhấn mạnh.
Nhật Lệ
Nguồn: Vnexpress